Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật
di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm
(1) dã mã 野馬: mây mỏng hoặc hơi nước di động. ◇Trang Tử 莊子: Dã mã dã, trần ai dã, sanh vật chi dĩ tức tương xuy dã 野馬也, 塵埃也, 生物之以息相吹也 (Tiêu dao du 逍遙遊) Kìa hơi nước, kìa vẩn bụi, những vật sống lấy hơi mà thổi nhau.
(2) bành phái 澎湃: mông mênh, bao la; tiếng động hoặc khí thế sóng nước xung kích. ◇Tô Thức 蘇軾: Thử thân tùy tạo vật, Nhất diệp vũ bành phái 此身隨造物, 一葉舞澎湃 (Hàn tử hoa thạch tông trang 韓子華石淙莊) Tấm thân này theo con tạo (xoay vần), (Như) một chiếc lá quay cuồng trên sóng vùi dập.
(3) Nhiêm công 髯公: chỉ Tô Thức, hiệu là Tô Đông Pha, vì nhà thơ có bộ râu rậm.
(4) giả sở 檟楚:
hình cụ (roi, đòn...) làm bằng gỗ cây giả, cây kinh... dùng để đánh
đập. Cao Bá Quát bị tra tấn tàn khốc bằng roi. Xem thêm bài "Đằng tiên ca" 藤鞭歌.
(5) xem "Bạc vãn túy quy" 薄晚醉歸: 酩酊歸 來不用扶, 一江煙竹正模糊. 喃喃自與蓮花說, 可得紅如酒面無 (Mính đính quy lai bất dụng phù, Nhất giang yên trúc chánh mô hồ. Nam
nam tự dữ liên hoa thuyết, Khả đắc hồng như tửu diện vô). Thi Vũ dịch:
Chuếnh choáng say về không đợi dắt, Mịt mù khói trúc một dòng sông. Rì
rầm ghé tới hoa sen hỏi: Hoa có hồng như mặt rượu hồng?
(6) chỉ những kẻ theo thời, sẵn sàng quỵ lụy với quyền lực, không có
chút liêm sỉ, miễn đạt được danh lợi, để vênh váo với đời. Cao Bá Quát
thương xót họ mà nghĩ rằng không biết những kẻ này có được an thân suốt
đời như vậy không.
(7) Pháp nhãn 法眼: con mắt Phật nhìn thấu suốt mọi sự.
(8) lục tạc 六鑿: sáu giác quan có lỗ trên người (như mắt, mũi, tai, v.v.).
(9) hỏa khanh 火坑:
hố lửa, danh từ Phật giáo, thường gặp qua nhiều bộ kinh, như Pháp Hoa
chẳng hạn. Tả sự mê muội của người đời. Kinh Phật "Quan kinh sớ" 觀經疏 có câu: "Tam ác hỏa khanh, lâm lâm dục nhập" 三惡火坑, 臨臨欲入 Thấy hố lửa của ba đường ác, vẫn lăm lăm muốn vào. Ba đường ác, tam ác đạo 三惡道 gồm: ngạ quỉ 餓鬼, địa ngục 地獄 và súc sinh 畜生.
(10) luân đạn 輪彈:
bánh xe và viên đạn. ◇Trang Tử: "Tẩm giả nhi hóa dư chi hữu tí dĩ vi
đạn, dư nhân dĩ cầu hào chích; tẩm giả nhi hóa dư chi khào dĩ vi luân,
dĩ thần vi mã, dư nhân dĩ thừa chi" 浸假而化予之右臂以為彈, 予因以求鴞炙;浸假而化予之尻以為輪, 以神為馬, 予因以乘之 (Đại Tông Sư 大宗師)
Chẫm rãi mà hóa cánh tay phải tôi làm viên đạn, tôi sẽ nhân để kiếm chả
chim. Chẫm rãi mà hóa xương-cùng tôi làm bánh xe, lấy thần hồn làm
ngựa, tôi sẽ nhân mà cưỡi nó (Nhượng Tống dịch). Ghi chú: tẩm giả 浸假 cũng có nghĩa là: giá như, nếu.
(11) Đời Chiến Quốc, thi hào Khuất Nguyên tận trung với nước Sở. Nhưng
Sở Hoài Vương phóng trục, ông đi lang thang ở bờ sông, làm ra thiên Li
Tao 離騷 tỏ lòng thương đời lo nước của mình.
正月二十一日 移送承天獄鎖禁 Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm Ngày 21 tháng Giêng, năm Nhâm Dần (1842), Cao Bá Quát bị giải giam tới ngục Thừa Thiên, làm bài thơ này.
余生一野馬
飄轉隨天風
往來無定根
只在大塊中
始為百鍊剛
骯髒一士雄
自著世網嬰
騷屑從磨礱
以我曠薄心
猛與憂戚通
一葉舞澎湃
斯言聞髯公
歲暮謝檟楚
殘生信微躬
內志攝外氣
不取鄙慮攻
忽憶少年時
醉臥荊棘叢
困眠得所息
豈知傷路窮
坎坷履斯運
分委孤飛蓬
罪廢信我所
奚擇西與東
翻翻夸毗子
歡譁安有終
自我法眼觀
六鑿遺若空
火坑著幻相
輪彈與化同
放步學行吟
誰是離騷翁
Dư sanh nhất dã mã (1)
Phiêu chuyển tùy thiên phong
Vãng lai vô định căn
Chỉ tại đại khối trung
Thủy vi bách luyện cương
Khảng tảng nhất sĩ hùng
Tự trước thế võng anh
Tao tiết tòng ma lung
Dĩ ngã khoáng bạc tâm
Mãnh dữ ưu thích thông
"Nhất diệp vũ bành phái" (2)
Tư ngôn văn Nhiêm công (3)
Tuế mộ tạ giả sở (4)
Tàn sanh tín vi cung
Nội chí nhiếp ngoại khí
Bất thủ bỉ lự công
Hốt ức thiếu niên thì
Túy ngọa kinh cức tùng (5)
Khốn miên đắc sở tức
Khởi tri thương lộ cùng
Khảm kha lí tư vận
Phân ủy cô phi bồng
Tội phế tín ngã sở
Hề trạch tây dữ đông
Phiên phiên khoa bì tử
Hoan hoa an hữu chung (6)
Tự ngã pháp nhãn quan (7)
Lục tạc (8) di nhược không
Hỏa khanh (9) trước huyễn tướng
Luân đạn (10) dữ hóa đồng
Phóng bộ học hành ngâm
Thùy thị Li Tao ông (11)?
Dịch nghĩa:
Đời ta là hơi nước đồng hoang
Bay bổng tùy theo gió trời
Đi lại không có gốc rễ cố định
Chỉ ở trong vòng trời đất lớn
Trước kia là sắt luyện cứng trăm lần
Ngang tàng một kẻ sĩ hùng dũng
Từ khi mắc vào mạng lưới trói buộc trong đời
Buồn khổ dày vò mài nghiến
Đem tấm lòng phóng khoáng cao rộng của ta
Đụng chạm mạnh với những nỗi đau thương
Như "một chiếc lá quay cuồng trên sóng mạnh vùi dập"
Lời đó ta nghe của ông Nhiêm công
Năm hết mới thoát nạn roi vọt
Mới tin rằng tấm thân tàn mọn này còn sống sót
Dùng ý chí nội tâm thu nhiếp bảo tồn thể chất bên ngoài
Không để cho sự lo lắng bạc nhược công phạt
Bỗng nhớ thời trai trẻ
Say nằm trong bụi gai góc
Buồn ngủ là ngủ ngon giấc
Đâu cần biết gì đau thương vì cảnh đường cùng
Bước lên vận mệnh gập ghềnh trắc trở này
Phó cho ngọn cỏ bồng lẻ loi phiêu dạt
Thân tội bị bỏ phế, đâu chẳng là nhà
Chọn lựa gì nữa tây với đông?
Kìa những kẻ xun xoe nịnh nọt
Huyênh hoang đó, nhưng rồi chung cục sẽ ra sao?
Ta lấy pháp nhãn nhìn
Sáu khiếu là không cả
Hố lửa bén vào sắc tướng không thật
Làm bánh xe hay viên đạn cũng là biến hóa tự nhiên như nhau cả
Thẳng bước bắt chước phép vừa đi vừa hát
Ai mới thực là ông Li Tao đây (giữa ta và Khuất Nguyên)?
Dịch thơ:
Ngày 21 tháng Giêng, năm Nhâm Dần (1842), bị giải giam tới ngục Thừa Thiên
Ta hơi nước đồng hoang
Bay bổng theo gió ngàn
Đi lại không bám rễ
Chỉ ở giữa trần gian
Trước kia là sắt luyện
Ngang tàng bậc anh hùng
Khi đã mắc vào tròng
Buồn khổ càng mài nghiến
Đem lòng ta phóng khoáng
Đụng chạm bao đau thương
Lá quay cuồng trên sóng
Đúng như lời Nhiêm công
Năm hết thoát roi vọt
Mới tin còn sống sót
Thu lòng gìn giữ thân
Hèn, sợ, lo: dẹp hết
Bỗng nhớ thời trai trẻ
Say nằm trong bụi gai
Buồn ngủ đánh một giấc
Biết chi đau đường dài
Trắc trở vận mệnh này
Mặc lá cỏ bồng bay
Tội phế đâu cũng thế
Chọn lựa gì đông tây?
Kẻ xun xoe nịnh bợ
Ba hoa mãi an thân?
Ta lấy pháp nhãn nhìn
Sáu khiếu hoàn không cả
Hố lửa bén huyễn tướng
Xe với đạn cũng đồng
Thẳng bước đi vừa hát
Ai thật Li Tao ông?
(Đặng Thế Kiệt dịch)