Cao Bá Quát 高伯适 * thơ chữ Hán
Sunday, 21 June 2015
Thanh Trì phiếm chu nam hạ 清池汎舟南下
清潭催別袂
珥水濺行襟
沙闊黄雲暮
天低白日沈
客舟寒汎汎
江色晚陰陰
不見波濤壯
安知萬里心
Thanh Đàm thôi biệt duệ
Nhị Thủy tiễn hành khâm
Sa khoát hoàng vân mộ
Thiên đê bạch nhật trầm
Khách chu hàn phiếm phiếm
Giang sắc vãn âm âm
Bất kiến ba đào tráng
An tri vạn lí tâm.
Dịch nghĩa:
Từ Thanh Trì đưa thuyền xuôi nam
Vừa giục giã chia tay ở Thanh Ðàm
Mà giờ đây nước sông Nhị đã vấy áo người đi
Cát rộng mây vàng chiều tà
Trời thấp, mặt trời xuống
Thuyền khách lạnh trôi bồng bềnh
Màu sông chiều âm u
Không thấy sóng lớn mạnh
Sao biết chí lớn muôn dặm
Dịch thơ:
Thanh Trì, thuyền xuôi nam
Thanh Ðàm vội chia tay,
Sông Nhị áo ướt đầy.
Mây vàng chiều cát lộng,
Vòm thấp mặt trời xoay.
Sông chiều màu u ám,
Khách lạnh thuyền day day.
Không thấy sóng lớn mạnh,
Sao biết chí cao dày.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Quá Dục Thúy sơn 過浴翠山
天地有斯山
萬古有斯寺
風景已奇絕
而我亦來此
我欲登高岑
浩歌寄雲水
有約乃違斯
凡事大都爾
Quá Dục Thúy sơn (1)
Thiên địa hữu tư sơn
Vạn cổ hữu tư tự
Phong cảnh dĩ kì tuyệt
Nhi ngã diệc lai thử
Ngã dục đăng cao sầm
Hạo ca kí vân thủy
Hữu ước nãi vi tư
Phàm sự đại đô nhĩ
Chú thích
(1) Dục Thúy sơn 浴翠山: nghĩa là "núi có hình con chim trả đang tắm gội", tên do Trương Hán Siêu 張漢超 đặt cho ngọn núi Non Nước ở tỉnh Ninh Bình (quê hương ông).
Dịch nghĩa:
Qua núi Dục Thúy
Trời đất có núi này
Muôn thuở có chùa này
Phong cảnh thật đẹp lạ
Mà ta cũng đã đến đây
Ta muốn lên núi cao đó
Hát vang gửi mây nước
Ước thế mà chẳng được
Thường thường mọi sự đều như vậy
Dịch thơ:
Qua núi Dục Thúy
Trời đất có núi ấy,
Muôn thuở có chùa này.
Phong cảnh đẹp biết mấy,
Mà ta cũng đến đây.
Ta muốn lên núi ấy,
Hát vang gửi nước mây.
Ước thế mà không được,
Mọi sự thường như vậy.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Phạn xá cảm tác 飯舍感作
天下菲薄人
無如飯舍子
當客未住時
前階要客止
有善為君甘
有枕為君寐
迨客已住時
舍人向前語
君既吃我餐
君應厚我利
償飯點錢清
舍人心別冀
太早促客行
不容嗽清水
客人若少停
舍人罵聲起
未知何珍重
既利何厭鄙
算來此舍人
愛利不愛士
Thiên hạ phỉ bạc nhân
Vô như phạn xá tử
Đương khách vị trú thời
Tiền giai yêu khách chỉ
"Hữu thiện vị quân cam
"Hữu chẩm vị quân mị"
Đãi khách dĩ trú thời
Xá nhân hướng tiền ngữ
Quân kí cật ngã xan
Quân ưng hậu ngã lợi
Thường phạn điểm tiền thanh
Xá nhân tâm biệt kí
Thái tảo xúc khách hành
Bất dung thấu thanh thủy
Khách nhân nhược thiểu đình
Xá nhân mạ thanh khởi
Vị tri hà trân trọng
Ký lợi hà yếm bỉ
Toán lai thử xá nhân
Ái lợi bất ái sĩ.
Dịch nghĩa:
Cảm tác ở hàng cơm
Kẻ tệ bạc trong thiên hạ
Không ai như anh hàng cơm
Khi khách chưa ở trọ
Trước thềm kèo nài khách dừng chân
"Có cơm ngon cho ông xơi,
"Có gối êm cho ông ngủ"
Sau khi khách ở trọ rồi
Chủ quán liền đến nói
"Ông đã ăn cơm hàng tôi,
"Xin ông cho lời nhiều"
Trả tiền cơm xong rồi
Chủ quán lại có ý khác
Sáng thiệt sớm giục khách đi
Không cho được ngụm nước trong súc miệng
Khách mà chậm trễ một chút
Chủ quán lên tiếng chửi
Khi chưa biết được khách, sao mà trân trọng thế
Lấy được lợi rồi, lại thật là thô bỉ
Coi ra chủ quán này
Thích lợi chứ không yêu gì kẻ sĩ
Dịch thơ:
Cảm tác ở hàng cơm
Trên đời kẻ tệ bạc,
Ai như anh hàng cơm.
Khi khách chưa ở trọ,
Trước thềm nài dừng chân.
"Ở đây có cơm ngọt,
"Có gối ông ngủ ngon."
Sau khi khách trọ xong,
Chủ quán liền đến nói:
"Ông đã ăn cơm hàng,
"Xin cho lời nhiều với."
Khách trả tiền xong xuôi,
Chủ quán lại ý khác.
Sớm giục khách lên đường,
Súc miệng không ngụm nước.
Khách chậm trễ một chút,
Chủ quán chửi bới ngay.
Chưa được, trân trọng thế,
Lợi rồi, thật thô bỉ.
Coi ra chủ quán này,
Có yêu gì kẻ sĩ.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Saturday, 20 June 2015
Chu hành há Thanh Khê nhân cố nhân kí biệt tòng du chư đệ tử 舟行下清溪因故人寄別從遊諸弟子
諸子復不捨
戀戀從我遊
晨夕意未愜
載酒隨輕舟
五行在咫尺
相望各夷猶
草草涉山徑
徒此念冥搜
悵然心賞違
恨與清江流
人生感意氣
聚散豈自謀
吾詩固嘗云
我初無行留
故人達順翁
送我卻掉頭
因聲謝朋侶
煩作致書郵
雲關去不遠
回首雲悠悠
應憐一片月
夜夜到銀溝
Chư tử phục bất xả
Luyến luyến tòng ngã du
Thần tịch ý vị thiếp
Tái tửu tùy khinh chu
Ngũ Hành (1) tại chỉ xích
Tương vọng các di du
Thảo thảo thiệp san kính
Đồ thử niệm minh sưu
Trướng nhiên tâm thưởng vi
Hận dữ thanh giang lưu
Nhân sanh cảm ý khí
Tụ tán khởi tự mưu
Ngô thi cố thường vân (2)
Ngã sơ vô hành lưu
Cố nhân Đạt Thuận (3) ông
Tống ngã khước trạo đầu
Nhân thanh tạ bằng lữ
Phiền tác trí thư bưu
Vân quan khứ bất viễn
Hồi thủ vân du du
Ưng liên nhất phiến nguyệt
Dạ dạ đáo ngân câu (4)
Chú thích
(1) Ngũ Hành 五行: Dãy núi bên bờ sông Hãn, gần cửa Đà Nẵng.
(2) Xem Trường giang thiên 長杠篇, bài 3: Ngã vô hành dã, diệc vô lưu 我無行也, 亦無留.
(3) Đạt Thuận 達順: Tên người.
(4) Ngân Câu 銀溝: Tên quán Đạt Thuận thường đến ngồi.
Dịch nghĩa:
Thuyền xuôi Thanh Khê, nhân có người quen gửi lời từ biệt các học trò
Các trò vẫn chưa chịu chia tay
Quyến luyến theo tôi mãi
Hết sớm lại chiều vẫn chưa thỏa lòng
Lại còn chở rượu theo thuyền tôi
Núi Ngũ Hành chỉ cách gang tấc
Nhìn nhau đều tỏ vẻ dùng dằng
Vội bước lên đường núi
Định bụng hết sức đi tìm
Bỗng lòng bùi ngùi mất hứng thú
Mối hận trôi theo dòng sông
Ở đời người ta cảm nhau vì ý khí
Sum họp hay chia lìa, mình có mưu tính được đâu
Trong thơ tôi đã từng nói
Ta chẳng bao giờ định ra đi hay ở lại
Nay ông bạn Đạt Thuận
Đi tiễn tôi rồi quay trở về
Tiện gửi lời cảm ơn các bạn
Phiền ông làm trạm chuyển thư
Đèo Hải Vân không còn xa là bao
Ngoảnh đầu lại thấy mây bay lững lờ
Thương cho một mảnh trăng kia
Đêm đêm soi hoài trên sông bạc
Dịch thơ:
Thuyền xuôi Thanh Khê, nhân có người quen gửi lời từ biệt các học trò
Chưa đành lòng chia biệt
Quấn quýt theo tôi hoài
Sáng tối còn chưa thỏa
Chở rượu theo thuyền ai
Núi Ngũ Hành gang tấc
Nhìn nhau thêm bồi hồi
Vội bước qua đường núi
Hết sức tìm cho hay
Lòng chợt sinh buồn bã
Hận trôi theo sông dài
Đời cảm nhau ý khí
Li hợp tính sao đây
Thơ tôi vốn từng nói
Đi hoặc ở nào hay
Ông bạn thân mến hỡi
Đưa tiễn mái thuyền quay
Phiền ông làm nhà trạm
Tạ bè bạn lời này
Hải Vân không xa lắm
Quay đầu dằng dặc mây
Thương mảnh trăng soi sáng
Từng đêm nước bạc đầy
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Tuesday, 17 March 2015
Đạo phùng ngạ phu 道逢餓夫
踽踽誰家子,
衣破笠不完。
倏從南方來,
向我前頭嘆。
問子何所憂?
自云長艱難。
家貧藝醫卜,
我來走長安。
長安無病人,
群醫如邱山。
零丁望歸路,
極目雲漫漫。
二日典空篋,
三日輟饔餐。
逢人但誤喜,
欲言聲屢乾。
噫子且休淚,
一饋與子歡。
悠悠逆旅中,
百年誰自寬。
慢也莫驟咽,
暴盈非壯顏。
củ củ (1) thùy gia tử
y phá lạp bất hoàn。
thúc (2) tòng nam phương lai,
hướng ngã tiền đầu thán。
vấn tử hà sở ưu?
tự vân trường gian nan。
gia bần nghệ y bốc,
ngã lai tẩu trường an (3)。
trường an vô bệnh nhân,
quần y như khâu san。
linh đinh (4) vọng quy lộ,
cực mục vân man man。
nhị nhật điển không khiếp,
tam nhật xuyết ung xan。
phùng nhân đãn ngộ hỉ,
dục ngôn thanh lũ can。
y tử thả hưu lệ,
nhất quỹ dữ tử hoan。
du du nghịch lữ (5) trung,
bách niên thùy tự khoan。
mạn dã mạc sậu yết,
bạo doanh phi tráng nhan。
chú thích
(1) củ củ 踽踽: vò võ, lủi thủi, đi một mình.
(2) thúc 倏: chợt. ◎Như: thúc hốt 倏忽 chớp nhoáng, trong khoảnh khắc.
(3) Trường An 長安: tên đô thành xưa bên Trung Quốc. Phiếm chỉ kinh đô.
(4) linh đinh 零丁: cô đơn không nơi nương tựa.
(5) nghịch lữ 逆旅: quán trọ. ◇Lí Bạch 李白: Phù thiên địa giả, vạn vật chi nghịch lữ 夫天地者, 萬物之逆旅 (Xuân dạ yến đào lí viên tự 春夜宴桃李園序) Trời đất là quán trọ của vạn vật.
Dịch nghĩa:
Trên đường gặp người đói
Người đi lủi thủi một mình kia là ai,
Áo rách, cái nón chẳng còn nguyên vẹn.
Chợt từ phía nam lại,
Ðến trước mặt ta than thở.
Ta hỏi: Ông có gì lo,
Nói rằng: Gặp khó khăn đã lâu.
Tôi nhà nghèo, làm nghề thuốc và coi bói,
Đến kinh đô (mong tìm việc sinh sống).
(Nhưng ở) kinh đô không có người bệnh,
Thầy thuốc đông như gò đống.
Tôi bơ vơ không biết nhờ vả vào ai, đang trông ngóng đường về quê,
Dõi mắt nhìn, chỉ thấy mây mờ mù mịt.
Ngày thứ hai (hết tiền giành giụm), phải đem cầm cố cái tráp không,
Ngày thứ ba, hai bữa ăn cũng không có.
Gặp người chỉ mừng hụt,
Muốn nói thêm nhưng đã khan cả tiếng.
Thôi, ông đừng rớt nước mắt nữa,
Cùng ta ăn một bữa cho vui.
(Đời người ta) dằng dặc như ở trong một quán trọ,
(Trong cuộc trăm năm) có mấy ai được ung dung.
Hãy thong thả, đừng nuốt vội,
(Đang đói) mà ăn đầy bụng nhanh quá không tốt đâu.
Dịch thơ:
Trên đường gặp người đói
Lủi thủi ai đi đó,
Áo rách nón tả tơi.
Chợt từ phía nam lại,
Ðến ta than mấy lời.
Hỏi ông có gì lo,
Nói rằng khó khăn mãi.
Nhà nghèo nghề thuốc bói,
Lang thang đến kinh đô.
Kinh đô không người bệnh,
Thầy thuốc mọc như nấm.
Linh đinh ngóng lối về,
Quê nhà mây thăm thẳm.
Hai ngày, đem cầm tráp,
Ba ngày, ăn cũng thôi.
Gặp người chỉ mừng hụt,
Nói thêm đã nghẹn lời.
Thôi, ông đừng khóc nữa,
Một bữa đây cùng vui.
Trăm năm như quán trọ,
Ung dung được mấy người.
Thong thả, đừng vội nuốt,
Ngốn đầy bụng không tốt.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Monday, 9 February 2015
Dương phụ hành 洋婦行
Các nhà nghiên cứu đều đã chú ý đến tầm nhìn sáng suốt của Cao Bá Quát, tâm trạng ưu thời mẫn thế của ông trước hiểm họa xâm lược của thực dân phương Tây thể hiện qua các bài thơ ông sáng tác trong khi đi dương trình hiệu lực. Vốn là người có tư tưởng phóng khoáng, khi đi sang Đông Nam Á, Cao Bá Quát, ông không hề có cái nhìn kỳ thị với văn hóa khác lạ. Bài thơ “Dương phụ hành” cho biết sự sửng sốt của ông khi được chứng kiến cảnh người phụ nữ nhưng đồng thời cũng là chứng cứ cho phép hiểu được tầm nhìn khoan dung hiếm hoi của nhà nho trước một nền văn hóa khác lạ. Không theo mô hình tư duy truyền thống của Nho gia, dễ dãi phán xét Hoa-Di đối với cái không giống mình, Cao Bá Quát quan sát một cách chăm chú và hứng thú những biểu hiện ứng xử nói lên tinh thần đề cao phụ nữ của Tây dương và chợt nhớ tình cảnh xa nhà và người vợ nơi quê nhà.
(Tạ Trọng Hiệp, Ý nghĩa của chuyến đi dương trình hiệu lực với tư tưởng Cao Bá Quát)
洋婦行
Dương phụ hành
西方少婦衣如雪
Tây phương thiếu phụ y như tuyết
獨憑郎肩坐明月
Độc bằng lang kiên tọa minh nguyệt
卻望南船燈火明
Khước vọng nam thuyền đăng hỏa minh
把袂喃喃向郎說
Bả mệ nam nam hướng lang thuyết
一碗醍醐手懶持
Nhất oản đề hồ thủ lãn trì
夜寒無那海風吹
Dạ hàn vô nả hải phong xuy
翻身更倩郎扶起
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi
豈識南人有別離
Khởi thức nam nhân hữu biệt li
Người thiếu phụ phương Tây (bài hành)
Thiếu phụ phương Tây áo trắng tuyết,
Vai chồng ngồi tựa dưới vầng nguyệt.
Nhìn thuyền nam đến rực hoa đèn,
Níu áo cùng chồng câu ríu rít.
Chén sữa thờ ơ cầm một tay,
Phải chăng gió biển lạnh đêm nay.
Nghiêng mình cô muốn chàng nâng dậy,
Có biết người Nam ly biệt đây.
(Đặng Thế Kiệt dịch)
Monday, 10 November 2014
chú thích: di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm
正月二十一日 移送承天獄鎖禁
Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục tỏa cấm
(1) dã mã 野馬: mây mỏng hoặc hơi nước di động. ◇Trang Tử 莊子: Dã mã dã, trần ai dã, sanh vật chi dĩ tức tương xuy dã 野馬也, 塵埃也, 生物之以息相吹也 (Tiêu dao du 逍遙遊) Kìa hơi nước, kìa vẩn bụi, những vật sống lấy hơi mà thổi nhau.
(2) bành phái 澎湃: mông mênh, bao la; tiếng động hoặc khí thế sóng nước xung kích. ◇Tô Thức 蘇軾: Thử thân tùy tạo vật, Nhất diệp vũ bành phái 此身隨造物, 一葉舞澎湃 (Hàn tử hoa thạch tông trang 韓子華石淙莊) Tấm thân này theo con tạo (xoay vần), (Như) một chiếc lá quay cuồng trên sóng vùi dập.
(3) Nhiêm công 髯公: chỉ Tô Thức, hiệu là Tô Đông Pha, vì nhà thơ có bộ râu rậm.
(4) giả sở 檟楚: hình cụ (roi, đòn...) làm bằng gỗ cây giả, cây kinh... dùng để đánh đập. Cao Bá Quát bị tra tấn tàn khốc bằng roi. Xem thêm bài "Đằng tiên ca" 藤鞭歌.
(5) xem "Bạc vãn túy quy" 薄晚醉歸: 酩酊歸 來不用扶, 一江煙竹正模糊. 喃喃自與蓮花說, 可得紅如酒面無 (Mính đính quy lai bất dụng phù, Nhất giang yên trúc chánh mô hồ. Nam nam tự dữ liên hoa thuyết, Khả đắc hồng như tửu diện vô). Thi Vũ dịch: Chuếnh choáng say về không đợi dắt, Mịt mù khói trúc một dòng sông. Rì rầm ghé tới hoa sen hỏi: Hoa có hồng như mặt rượu hồng?
(6) chỉ những kẻ theo thời, sẵn sàng quỵ lụy với quyền lực, không có chút liêm sỉ, miễn đạt được danh lợi, để vênh váo với đời. Cao Bá Quát thương xót họ mà nghĩ rằng không biết những kẻ này có được an thân suốt đời như vậy không.
(7) Pháp nhãn 法眼: con mắt Phật nhìn thấu suốt mọi sự.
(8) lục tạc 六鑿: sáu giác quan có lỗ trên người (như mắt, mũi, tai, v.v.).
(9) hỏa khanh 火坑: hố lửa, danh từ Phật giáo, thường gặp qua nhiều bộ kinh, như Pháp Hoa chẳng hạn. Tả sự mê muội của người đời. Kinh Phật "Quan kinh sớ" 觀經疏 có câu: "Tam ác hỏa khanh, lâm lâm dục nhập" 三惡火坑, 臨臨欲入 Thấy hố lửa của ba đường ác, vẫn lăm lăm muốn vào. Ba đường ác, tam ác đạo 三惡道 gồm: ngạ quỉ 餓鬼, địa ngục 地獄 và súc sinh 畜生.
(10) luân đạn 輪彈: bánh xe và viên đạn. ◇Trang Tử: "Tẩm giả nhi hóa dư chi hữu tí dĩ vi đạn, dư nhân dĩ cầu hào chích; tẩm giả nhi hóa dư chi khào dĩ vi luân, dĩ thần vi mã, dư nhân dĩ thừa chi" 浸假而化予之右臂以為彈, 予因以求鴞炙;浸假而化予之尻以為輪, 以神為馬, 予因以乘之 (Đại Tông Sư 大宗師) Chẫm rãi mà hóa cánh tay phải tôi làm viên đạn, tôi sẽ nhân để kiếm chả chim. Chẫm rãi mà hóa xương-cùng tôi làm bánh xe, lấy thần hồn làm ngựa, tôi sẽ nhân mà cưỡi nó (Nhượng Tống dịch). Ghi chú: tẩm giả 浸假 cũng có nghĩa là: giá như, nếu.
(11) Đời Chiến Quốc, thi hào Khuất Nguyên tận trung với nước Sở. Nhưng Sở Hoài Vương phóng trục, ông đi lang thang ở bờ sông, làm ra thiên Li Tao 離騷 tỏ lòng thương đời lo nước của mình.
Subscribe to:
Posts (Atom)